278- TU TẬP THEO THỨ LỚP TỪ
THẤP ĐẾN CAO
(11:44) Nhưng
Thầy nói như thế này để cho quý vị thấy rằng đạo Phật có 8 cái lớp để tu học, tức
là lớp Chánh Kiến, lớp Chánh Tư Duy, rồi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, rồi
tới Chánh Định. Thì như vậy là 8 cái lớp mà chúng ta tu tập này, mỗi lớp phải
tu tập những bài pháp nào, để tu tập cái lớp đó, mà cái lớp đó nó thực hiện ở cấp
nào. Bởi vì đạo Phật có 3 cấp: cấp Giới Luật, cấp Thiền Định, và cấp Trí Tuệ,
chứ không phải muốn vô học muốn tu, tu lu bù, không được.
Cho nên người
cư sĩ, người ta vào mà người ta theo đạo Phật thì người ta học cái lớp đầu tiên
là lớp Chánh Kiến. Người ta thực hiện Giới luật của người ta đó là bát giới,
tám cái giới. Nhưng mà 8 giới gồm có 9 giới Sadi ở trong đó rồi, cho nên gọi là
Thọ Bát Quan Trai, có phải không?
Cho nên người
cư sĩ mỗi tháng họ phải dành cho họ trong một ngày hoặc hai ngày để Thọ Bát Quan
Trai, họ sống như đời sống của người tu sĩ, họ tu tập đúng pháp để ngăn ác diệt
ác, lúc nào cũng tăng trưởng sanh thiện để họ sống cho đúng cách, rồi họ áp dụng
vào trong những ngày mà họ tiếp duyên với nhau, họ làm công việc để sống, họ tiếp
duyên để họ xả tâm họ.
(13:32) Thì
khi một người cư sĩ mà họ tập tu như vậy, đó là họ tập tu đạo đức nhân bản nhân
quả không làm khổ mình khổ người, đó là cái đạo đức của đạo Phật. Cho nên chúng
ta học Chánh Kiến như thế nào, khi nhìn mọi vật, mọi đối tượng, mọi pháp xảy ra
trước mắt họ, họ phải thấy như thế nào gọi là Chánh Kiến?
Nếu mà thấy
làm cho chúng ta giận hờn, phiền não, đau khổ thì đó là tà kiến chứ không thể
nói gọi là Chánh Kiến được. Do đó nếu mà chúng ta có tà kiến thì sẽ đem đến cho
chúng ta những nỗi đau khổ cho mình và còn cho người khác nữa. Thì như vậy
chúng ta là người thiếu đạo đức với mình và thiếu đạo đức với người khác.
Cho nên quý
Phật tử là những người chưa xuất gia phải học cái lớp Chánh Kiến. Còn hiện bây
giờ tu sĩ chúng ta cũng chưa có người nào biết Chánh Kiến. Nói thì chúng ta nói
được, tôi nói tôi Chánh Kiến, nhưng mà hở ra chút thì giận hờn phiền não đau khổ
tham muốn đủ thứ trong này, nhìn cái vật gì cũng thấy cũng muốn. Nhìn người ta
nói một tiếng hơi nặng một chút xíu trái ý mình thì lại phiền não, lại tức giận,
thì như vậy rõ ràng là mình tà kiến hết.
Nghe, thấy
những cái điều đó mà làm cho tâm mình bất an, thì người đó tà kiến chứ không thẻ
nào là Chánh Kiến. Bởi vì đối với Chánh Kiến của đạo Phật là đạo Phật là đạo đức,
thấy một cái sự vật, đúng một sự vật làm cho chúng ta cởi mở, không phiền não
đó là Chánh Kiến.
Cho nên khi
chúng ta học cái lớp Chánh Kiến phải một năm, vừa trong những cái bài mà chúng
ta học để thấm nhuần được những cái lý mà của Phật dạy chúng ta. Rồi chúng ta lại
tu tập rèn luyện chứ không phải học suông không để mà hiểu, rồi gọi là Chánh Kiến,
không phải. Phải có sự tu tập nữa, phải rèn luyện mình ở trong những cái phương
pháp mà đức Phật đã dạy chúng ta.
(15:23) Bây
giờ nhìn, mà nhìn như thế nào để biết nó là nhân quả, nó là thiện hay là ác?
Thì khi mà người ta chửi mình, mình phải nghe cái ngôn ngữ đó, lời nói đó nó
làm cho mình bất an ở trong lòng của mình, bất toại nguyện trong lòng của mình,
nhưng cái hiểu biết khi nghe cái lời nói đó, nó làm chúng ta cởi mở mà không có
giận hờn, phiền toái trong lòng của mình, thì đó mới là Chánh Kiến.
Còn cái lớp
Chánh Tư Duy là chúng ta phải có sự suy tư, có sự nghĩ tưởng, thì đây là những
cái tâm niệm của chúng ta, khi khởi lên một cái niệm thì chúng ta đưa một cái
niệm đó thành một cái đề tài, một cái đề tài quán xét, quán xét tức là tư duy.
Khi mà mình Chánh Tư Duy thì tất cả mọi ác pháp đều bị hóa giải ra hết, nó
không còn làm cho tâm chúng ta đau khổ nữa.
Cũng như bây
giờ nói về ác pháp thì chúng ta thấy cái thân bệnh, thân mà đau nhức cũng là ác
pháp đó. Cho nên trong Tứ Niệm Xứ thì đức Phật dạy, trên thân quán thân để khắc
phục tham ưu. Bây giờ trên thân chúng ta quán thân mà thấy cái thân nó bệnh
đau, vậy thì chúng ta bằng cách nào mà chúng ta khắc phục được cái bệnh đau ra
khỏi, thì như vậy có phải là chúng ta đã làm chủ được bệnh không?
Thế rồi Tứ
Niệm Xứ nó dạy như vậy mà chúng ta không biết cách nào hết, ngồi đó mà quán,
nào là quán thế này thế khác thế nọ, tất cả mọi cái cuối cùng bệnh đau thì chỉ
đi bác sĩ, đi nhà thương thì cái này coi như chúng ta tu không kết quả, tu sai
pháp. Còn một người tu đúng pháp thì người ta làm chủ được cái này.
Bởi vì trong
tâm lực của chúng ta nó có những cái lực, mà cái năng lực của nó nó có 7 cái
năng lực gọi là 7 cái năng lực Giác Chi. Giác Chi tức là Thất Bồ Đề đó, 7 cái
trạng thái giải thoát, 7 cái năng lực giải thoát nó giúp chúng ta được giải
thoát. Vì khi mà chúng ta tu Tứ Niệm Xứ thì 7 cái năng lực này nó hiện ra.
Cho nên đức
Phật nói Thất Giác Chi, thực phẩm món ăn của Thất Giác Chi là cái gì, là Tứ Niệm
Xứ mấy con. Món ăn là cái gì, hằng ngày chúng ta phải tu tập cái đó cũng như
mình ăn hằng ngày, ngày nào mình cũng phải ăn thì Tứ Niệm Xứ là món ăn của Thất
Giác Chi, có phải không?
(17:40) Quý
vị đọc trong kinh quý vị thấy, trong kinh nguyên thủy xác định được cái điều kiện
mà chúng ta thấy rất rõ. Nhưng mà 7 cái Giác Chi đó nó lại là món ăn cho Tứ Thiền,
cho Tam Minh. Nếu mà không có 7 cái năng lực Giác Chi này thì chúng ta không nhập
Tứ Thiền mà không bao giờ mà có Tam Minh được hết.
Đó, cho nên
từ ở chỗ cái Tứ Niệm Xứ chúng ta mới thấy được cái năng lực, cái năng lực tự
thân của chúng ta. Cho nên từ cái năng lực đó, bệnh đau trên thân chúng ta
chúng ta đẩy lui được hết. Chúng ta có một cái lệnh, cái lệnh đó gọi là pháp
Như Lý Tác Ý, như cái lý giải thoát mà tác ý.
Bây giờ thân
chúng ta đau chứ gì, tức là ác pháp chứ gì, như cái lý giải thoát mà chúng ta
tác ý thì cái thân của chúng ta sẽ hết đau. Phật đã dạy như vậy, như lý tác ý,
như cái lý giải thoát mà tác ý. Bây giờ thân đau bảo “Thân không đau”, thì
không đau với đau nó có khác nhau, có phải không? Cho nên chúng ta, cái lý của
nó nó đi ngược trở lại với cái ác pháp của nó.
Cũng như tâm
chúng ta có tham, thì chúng ta bảo “Không tham, dừng lại, giờ này không
phải ăn”, cho nên cái lệnh của chúng ta, cái lệnh mà chúng ta tác ý ra
nó mạnh lắm.
Cũng như bây
giờ cái thân của quý vị đau thì cái tâm của quý vị sẽ bị dao động. Cho nên muốn
cho cái tâm mình đừng dao động thì quý vị phải tác ý: “Thọ là vô thường,
cái đau này là không có thật, cho nên tâm đừng sợ, ngồi đây bất động”, thì
do đó chúng ta ngồi thẳng lưng lên, và nương vào trong một cái phương pháp mà
Phật đã dạy gọi là Định Niệm Hơi Thở.
Khi mà chúng
ta nương vào cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta nhắc như thế này. Bởi vì trong
16 và 18 cái đề mục, 16 cái đề mục trong Định Niệm Hơi Thở và trong cái pháp
Thân Hành Niệm thì có thêm 2 cái đề mục nửa của về hơi thở nên cộng lại là 18
cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở để cho nó đủ trọn vẹn về cái hơi thở. Và cái
phương pháp Định Niệm Hơi Thở nó giúp cho chúng ta đẩy lui được những cái chướng
ngại pháp ở trên thân và tâm của chúng ta.
(19:44) Thí
dụ như thân bị bệnh đau thì lúc bấy giờ chúng ta tác ý, như cái lý đạo mà chúng
ta tác ý: “Thọ là vô thường, tâm không có dao động, không có sợ hãi, hãy ngồi
thẳng lưng lên, hãy nhiếp tâm trong hơi thở”. Thì lúc bây giờ chúng ta
tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” để
cho tâm bám vào trong hơi thở, tức là an trú trong hơi thở.
Khi mà tâm
an trú trong hơi thở thì chúng ta lại tiếp tục chúng ta nhắc: “An tịnh
thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Nhưng
lúc bây giờ thân chúng ta đang bị đau, nó đâu có an được, phải không? Nhưng bây
giờ chúng ta lại tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân
hành tôi biết tôi thở ra”.
Có phải cái
câu kinh như vậy để nhắc cho chúng ta, để khi mà cái tâm nó an trú thật sự
trong hơi thở rồi thì nó có một trạng thái an ổn của thân của chúng ta, là lúc
bây giờ bệnh đau biến mất rồi. Hễ nó an thì thân chúng ta hết đau. Đó là một
cái phương pháp để khắc phục tham ưu trên thân của chúng ta, làm chúng ta không
còn ưu phiền nữa.
Các Phật tử
thấy một người mà bệnh đau, thì cái người đó họ có an ổn không, họ có ưu phiền
không? Có, lo lắng, ưu phiền, không biết mình có thể chết, chết rồi sự nghiệp
mình để đó cho ai, hoặc là con cái mình còn nhỏ, hoặc là như thế này thế khác,
nó làm cho chúng ta rất ưu phiền. Cho nên khi trên thân quán thân mà gặp cái
trường hợp mà ác pháp như vậy, thì chúng ta đẩy lui ác pháp đó ra, không cần phải
uống thuốc đâu.
Đây là cái
phương pháp thực tế, cụ thể, mà tâm chúng ta mà không an ổn thì chúng ta cũng
có những cái phương pháp để đẩy lui những cái (không) an ổn của cái tâm. Cho
nên trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu ở trên đó. Như vậy Tứ Niệm Xứ dạy
chúng ta những cái phương pháp để mà chúng ta khắc phục được những sự đau khổ ở
trên thân tâm.
(21:33) Và
cuối cùng khi thân tâm chúng ta đã khắc phục được, tâm đã ly dục ly ác pháp được,
nó không còn tác động được, bởi vì ác pháp không tác động được nó thì nó an ổn
chứ gì, nó sẽ thanh tịnh chứ gì? Thì lúc bây giờ Bảy Giác Chi xuất hiện. Bảy
cái năng lực giải thoát xuất hiện, tức là bảy cái trạng thái Bồ Đề đó, nó xuất
hiện ra chúng ta, chừng đó chúng ta sử dụng sẽ nhập Định.
Như vậy là
cái lớp Giới luật chúng ta phải ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chúng ta mới đủ
sức để rồi chúng ta mới bước qua cái lớp Định. Cho nên chúng ta thấy, cái Chánh
Niệm là cái Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ để giúp chúng ta thực hiện được cái tâm ly dục
ly ác pháp hoàn toàn, giúp cho tâm chúng ta bất động, thanh tịnh, để rồi chúng
ta có đủ lực chúng ta mới bước qua cái lớp, cái cấp 2 là cái cấp Định, chúng ta
mới bước vào cái lớp Chánh định.
Cho nên pháp
của Phật nó thực tế cụ thể như những cái môn học ở trong các trường học, nó
không khác gì hết. Vì vậy mà ước ao ngày mai này Phật giáo của chúng ta có những
cái trường học để dạy chúng ta từ lớp Chánh Kiến cho đến Chánh Định để thực hiện
Tam Minh, thì cái kết quả của nó để giúp chúng ta chứng quả A La Hán vô lậu
hoàn toàn, làm chúng ta được giải thoát.
Nghĩa là 10
người mà vào được những cái lớp học này, được những vị chứng quả A La Hán đứng
lớp mà dạy, thì 10 người sẽ chứng quả A La Hán tiếp tục 10 người, không có người
nào rớt hết. Bởi vì học đúng, hành đúng, có người dạy đúng thì không uổng công
của chúng ta chút nào hết.
Cũng như bây
giờ mình cố gắng mình học tập, mình học tập đúng, có thầy dạy đúng, có trường lớp
hẳn hòi, có bài vở hẳn hòi từ lớp thấp đến lớp cao, thì cuối cùng mình phải tốt
nghiệp, phải có chứng chỉ, phải có cấp bằng.
Thí dụ như học
bác sĩ thì phải đỗ ra thành bác sĩ, phải học tiến sĩ về môn học nào đó thì cũng
sẽ đỗ ra thành tiến sĩ, bởi vì mình siêng năng mình cố gắng mình học. Cũng như
quý Phật tử siêng năng tu tập nhưng mà tu sai học sai thì cuối cùng mình không
tốt nghiệp được gì hết, uổng phí công của mình, còn học đúng thì mình sẽ đạt được.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét