110- CẦN BIẾT CÁCH XẢ VÔ LƯỢNG
TÂM ĐỂ GIỮ TÂM THANH THẢN
(1:33:11) Câu
hỏi thứ nhất là cách thức tu "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự".
Con ngồi đi
con.
Để Thầy trả
lời chung: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" đó là Đức
Phật giác ngộ cho chúng ta hiểu đó là cái Niết Bàn, cái chân lý của đạo Phật,
Diệt Đế đó là cái Niết Bàn. Cho nên đây là cái kết quả của cái sự tu tập.
Mà kết quả của
sự tu tập nó có mười hai tiếng đồng hồ thì chúng ta sống mãi ở trong cái trạng
thái đó. Nhưng ở đây ngay từ cái kết quả đó mà chúng ta đã ngộ ra rồi thì chúng
ta phải bảo vệ và giữ gìn cái kết quả đó, để chúng ta đạt được cái kết quả đó.
Cho nên Đức
Phật nói: "Hộ trì chân lý, bảo vệ chân lý". Cho nên
Thầy ngay từ cái nhận ra được cái tâm thanh thản, tức là nhận được cái kết quả,
cái Niết Bàn rồi bắt đầu bây giờ chúng ta biết. Vì vậy mà tất cả ác pháp mà xâm
chiếm làm cho mất cái Niết Bàn đó thì nhất định là chúng ta phải bảo vệ và giữ
gìn.
Cho nên bảo
vệ, giữ gìn thì trong Tứ Vô Lượng Tâm thì có tâm Xả Vô Lượng, xả tất cả các ác
pháp hết. Cho nên nói giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, mà nếu không biết cách
thức xả thì sẽ bị ức chế.
Vì vậy hôm
nay Thầy dạy cho các vị tuổi lớn, các cụ tuổi lớn không còn tu lòng vòng, chỉ
tu một pháp mà thôi, tức là Xả Tâm Vô Lượng. Thầy sẽ chỉ dạy cách thức Xả Tâm
Vô Lượng như thế nào đúng và như thế nào sai.
Nếu từ cái
câu tác ý "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" và cố gắng
giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, không cho một niệm nào khởi ở trong tâm
chúng ta, trong đầu chúng ta, thì đó là ức chế tâm. Tu như vậy là tu sai, không
đúng.
Giống như
Thiền Tông giữ tâm chẳng niệm thiện, niệm ác để cho Phật Tánh hiện tiền, tức
là: "Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền";
như pháp “tri vọng” của Hòa thượng Thanh Từ dạy: "Biết
vọng liền buông", nghĩa là thấy niệm liền buông.
Thấy niệm liền
buông tức là ức chế ý thức của chúng ta không cho tâm tham, sân, si hiện ra, đến
khi tâm không còn phân biệt khởi niệm thì chúng ta trở thành cây và đá, tức là
chúng ta lọt vào Không Tưởng.
(1:35:40) Cho
nên ở đây chúng ta tu "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự", lấy
trạng thái chân lý của đạo Phật mà tu, do đó phải biết cách, không khéo chúng
ta cũng dẫm chân tại chỗ (như) Thiền Đông Độ "biết vọng liền
buông".
Vì vậy mà
hôm nay chúng ta có phương pháp: Thứ nhất là chúng ta có phương pháp Như Lý Tác
Ý, thứ hai thì chúng ta phải học xong lớp Chánh Tư Duy, những gì thông hiểu cần
thông hiểu.
Khi chúng ta
thông hiểu xong thì chúng ta mới biết xả tâm, chưa thông hiểu thì tức là chúng
ta bị ức chế tâm.
Mỗi niệm
trong tâm chúng ta khởi ra đều mang theo bản chất tham, sân, si, mạn, nghi. Cho
nên ở đây nhắc "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" mà
không có pháp nào cả. Khi có một niệm khởi ra thì chúng ta không được nhắc: "Tâm
thanh thản, an lạc, vô sự", đó là cách thức ức chế tâm.
Khi có niệm
khởi ra thì chúng ta dùng tri kiến của mình hiểu niệm, để rồi thông suốt được
niệm đó là niệm gì?
Đây là khởi
niệm thương nhớ gia đình, thì đó là ái kiết sử. Thì lúc bấy giờ hiểu nó là ái
kiết sử, thì nghĩ nó đây là nhân quả, chùm nhân quả, thì phải làm cho xong nhiệm
vụ của chùm nhân quả này.
Bây giờ con
còn nhỏ mà ngồi đây tu mà nhớ nghĩ thương con mình không ai chăm sóc, nuôi dưỡng,
thì đây là trách nhiệm đạo đức chưa đủ, phải mau mau trở về mà lo lắng cái đạo
đức làm người, lo cho con mình lớn khôn, có công ăn việc làm, có đôi có bạn, hoặc
là đi tu thì mới có thể ngồi mà tu được "tâm thanh thản, an lạc,
vô sự".
Đó là cách
thức chuyển nhân quả làm cho tâm chúng ta được thanh thản, an lạc, vô sự bằng
cách giải quyết mọi nhân quả.
Còn hiện giờ
do các cụ đã lớn tuổi rồi, con cái lớn khôn chỉ còn chút ít cháu, mà cứ ôm cháu
thì sự tu tập không bao giờ được. Do đó chúng nó sinh con ra thì bổn phận chúng
phải nuôi dưỡng, chứ không phải mình nuôi dưỡng con mình nữa.
Bởi vì nhiệm
vụ trước kia mình sinh con ra, là mình phải nuôi dưỡng con mình đến lớn khôn,
có công ăn việc làm thì chúng ta mới tròn nhiệm vụ, mới ngồi lại tu tâm thanh
thản, an lạc, vô sự mới được.
(1:38:24) Vì
vậy khi mà chúng ta tu tâm thanh thản, an lạc, vô sự, mà có niệm ái kiết sử, mà
trách nhiệm bổn phận làm người đối với chùm nhân quả này đã xong, thì ngay đó
mình tác ý ngay liền: "Đạo đức nhân bản, nhân quả đã làm xong, tại
sao còn thương nhớ nữa? Việc này là phải chấm dứt ngay!"
Vì vậy mình
đã nhắc cho tâm mình biết rằng thương nhớ này là không đúng, do đó niệm ái kiết
sử sẽ tan làm không bị ức chế. Còn khi mình chưa làm hết bổn phận mà mình nhắc: "Đây
là ái kiết sử, lui đi" thì bị ức chế, là vì mình chưa hết bổn phận.
Còn mình hết
bổn phận, mình làm xong đạo đức làm người. Bởi vì đạo đức của Phật giáo là dạy
từ mọi người, từ gia đình phải sống có đạo đức, không được bỏ vợ con mà đi tu.
Ngày xưa Đức
Phật vì không có biết đạo đức làm người, cho nên Đức Phật bỏ cha mẹ, bỏ vợ con
đi tu, nhưng khi tìm ra được chân lý cho nên sau này những người nào mà đi tu
theo đạo Phật, chưa có vợ con mà cha mẹ không bằng lòng thì Đức Phật không chấp
nhận vào tu. Có vợ con mà vợ con không bằng lòng thì không chấp nhận vào tu.
Đó là đạo đức
của đạo Phật, thực hiện ngay từ thời Đức Phật. Do đó cho nên vì vậy mà đạo Phật
có đạo đức cụ thể rõ ràng, chứ không phải lấy gương Phật mà cho rằng
đúng: “Phật còn bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ vợ con mà đi tu; tại sao bây giờ mình
bỏ lại không được?”
Nhưng trước
đó chưa có đạo Phật, nếu có đạo Phật thì chắc chắn Đức Phật không bỏ vợ con mà
phải tu ngay trong gia đình của mình, làm cho vua cha bằng lòng để chấp nhận
cho mình đi tu; làm cho vợ con mình phải được đầy đủ trọn vẹn, con phải được lớn
khôn rồi mới đi tu.
Vì chưa có đạo
Phật nên chưa có đạo đức nhân bản, nhân quả, cho nên Đức Phật nghe sự giải
thoát, tìm thấy bốn sự đau khổ của kiếp người cho nên Ngài vội vã ra đi, cho
nên đầu tiên coi như Đức Phật thiếu đạo đức gia đình.
Vì vậy mà
sau này Ngài cấm: Con mà muốn xin đi tu theo Phật thì phải cha mẹ đồng ý, mà
không đồng ý thì Đức Phật không cho tu.
(1:40:57) Cho
nên ngay cả con ông Cấp Cô Độc muốn theo Phật tu hành, do ông Cấp Cô Độc
nói: "Của cải tài sản của ta như thế này, mà con đi tu để đây cho
ai?" Cho nên ý không muốn cho, đến xin Phật, Phật không cho.
Cho nên con
ông Cấp Cô Độc về muốn đi tu phải làm sao? Thì con ông Cấp Cô Độc nói với
cha: "Nếu ba không cho con đi tu, con nguyện con không ăn uống nữa",
nói: "Mày không ăn uống mày chết kệ mày, tao không có muốn cho mày
đi tu. Châu báu, vàng bạc, của cải tài sản bỏ đây cho ai? Tao có một thằng con,
mà mày đi tu rồi bỏ đây cho ai? "
Cho nên do
đó con ông Cấp Cô Độc nhịn ăn ngày đầu thứ nhất, nhịn tới ngày thứ hai cho đến
bảy ngày con ông không còn đứng dậy nổi. Ông hoảng, ông sợ nó chết: "Thôi
mày đi tu đi, chứ không mày nằm đây chắc mày chết!" Thì bắt đầu
nó ăn uống trở lại, và nó khỏe bắt đầu đến xin Phật tu tập.
Các con thấy
đây là một cuộc đấu tranh để làm cho cha mẹ mình bằng lòng để được theo Phật.
Cho nên đấu tranh có nghĩa là làm sao cho cha mẹ vui lòng, chứ không phải đấu
tranh theo kiểu con ông Cấp Cô Độc mấy con, cũng là cái thế làm cho cha mẹ rất
khổ tâm.
Cho nên ở
đây chúng ta phải là con người học đạo đức nhân bản, nhân quả mà Phật đã dạy
chúng ta tám lớp học này, thì chúng ta khi có một sự gì ngang trái trong nhân quả
thì chúng ta phải sử dụng nó.
Thầy trở lại
vấn đề hướng dẫn tu tập là phải hướng dẫn người già trong cái giai đoạn
tu "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự"; còn người trẻ thì
không được.
Nhưng người
trẻ mà không có vợ, không con đều tu tập được pháp môn này, vì Xả Tâm Vô Lượng.
Còn người có vợ, có con thì không được tu cái này. Người có hoàn cảnh cha mẹ
già yếu, bệnh tật tu này không được.
Pháp nào phải
ra pháp nấy. Pháp cho người già để cho người già tu, pháp cho người cư sĩ còn
trách nhiệm, bổn phận đạo đức gia đình thì không được bỏ đi tu trong pháp này,
nên tu những pháp khác.
(1:43:13) Cho
nên Xả Tâm Vô Lượng mà giữ được cái trạng thái chân lý của đạo Phật là hộ trì,
bảo vệ cái chân lý này được kéo dài mười hai tiếng đồng hồ, thì có phương pháp
Như Lý Tác Ý là trước tiên, phương pháp Định Niệm Hơi Thở là trước tiên.
Bây giờ khi
có niệm chúng ta hiểu biết niệm đó thì chúng ta tác ý ngay niệm đó, đã thông suốt
nó rồi thì cần tác ý: "Hãy tin tưởng đây là nhân quả! Lui! Chỗ này
không phải chỗ của mày tới viếng tao!"
Khởi một cái
tâm ham muốn, bây giờ giờ này không phải giờ ăn mà khởi đói bụng muốn ăn, hoặc
thấy cái bánh ngon muốn ăn: "Đây không phải giờ mày ăn, ăn uống
phi thời là không giới luật", do đó ngăn chặn liền.
Vì vậy mà
cái niệm như vậy thì ngăn chặn liền, đó gọi là xả tâm. Vì vậy bây giờ giờ này
là phải "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự", rồi bắt đầu ngồi
thanh thản, an lạc, vô sự, không ức chế nó, xem xét coi thân và tâm có những
chướng ngại gì?
Tâm hoàn
toàn không chướng ngại; thân nghe đau nhức chỗ nào thì ngay đó chướng ngại của
thân, để xả cái chướng ngại này để cho tâm và thân được thanh thản, an lạc, vô
sự thì chúng ta đối với thân có đau nhức chỗ nào thì chúng ta sử dụng Định Niệm
Hơi Thở hoặc là cánh tay chúng ta.
Bây giờ chân
này đang bị mỏi, bị tê, thì chúng ta sử dụng, do ngồi xếp bằng mà tê chân thì
chúng ta đứng dậy đi kinh hành xả ngay liền cơn tê.
Nếu mà do ngồi
mà đau bụng hoặc là trường hợp xảy ra nhức đầu, nóng lạnh, hoặc thấp khớp do đi
mà không có thể hết thì chúng ta ngồi lại dùng Định Niệm Hơi Thở tác ý:
"Thọ
là vô thường, cái đầu đau này phải ra khỏi thân ta! An tịnh thân hành tôi biết
tôi hít vô! An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra!" - Nương vào pháp Định Niệm Hơi
Thở để đẩy lui cái chướng ngại của bệnh đau trên thân của chúng ta, thì một lúc
sau thân chúng ta sẽ hết đau, và trở lại thanh thản, an lạc, vô sự.
Tức là cách
thức bảo vệ và hộ trì chân lý của chúng ta, phương pháp đó là phương pháp hộ
trì bảo vệ. Chứ không phải là tu theo Thọ Bát Quan Trai có bốn pháp là Định Vô
Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở.
(1:45:40) Không
phải tu tập các pháp đó, mà đây không có tu pháp gì hết, có chướng ngại dùng
pháp áp dụng đuổi chướng ngại trên pháp tu "Thanh thản, an lạc, vô
sự" - là pháp hộ trì bảo vệ chân lý, cho nên chúng ta sử dụng mọi
lúc.
Đứng dậy đi
kinh hành phá hôn trầm thùy miên, bởi vì bây giờ chướng ngại pháp đã đến làm
cho mờ mịt không còn thấy thanh thản, an lạc, vô sự nữa, cứ gục tới gục lui. Mà
cứ ngồi đó gục tới gục lui gọi là thanh thản, an lạc, vô sự sao được? Cho nên đứng
dậy đi kinh hành.
Trong khi đi
kinh hành vẫn thấy tâm thanh thản, an lạc, vô sự, hôn trầm thùy miên tan biến.
Đó là biết áp dụng trong những pháp đã tu học trong Thọ Bát Quan Trai vào pháp
tu bảo vệ và hộ trì chân lý "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự".
Như vậy
chúng ta có pháp để tu chứ không phải gọi là tu "Thanh thản, an lạc,
vô sự" rồi cứ tập trung trong trạng thái "Tâm thanh
thản, an lạc, vô sự" là sai. Để cho tất cả các niệm khác đều khởi
lên và mỗi niệm khởi lên chúng ta đều thông suốt những niệm đó, và cuối cùng
tác ý một câu để đuổi niệm đó, đó là Xả Tâm Vô Lượng.
Về thân có
đau nhức chỗ nào thì dùng Định Niệm Hơi Thở, dùng cánh tay đưa ra đưa vô, nương
vào cánh tay đưa ra đưa vô trong một giây, một phút, hai phút, ba phút, năm
phút; tất cả những chướng ngại đó, những ác pháp đó đều lui, để lại cho trạng
thái thanh thản, an lạc, vô sự, đó là bảo vệ hộ trì chân lý của chúng ta.
Cách thức của
người già nên tập tu như thế này là đúng. Và đồng thời trước khi tu tập Thầy
khuyên có một điều là nên đọc lại những bài vở của những tăng sinh đã học lớp
Chánh Kiến qua.
Những bài vở
đó Thầy dạy từ đạo đức nhân quả thảo mộc, đạo đức con người, đạo đức nhân bản -
nhân quả và các pháp vô thường, thân vô thường, thực phẩm bất tịnh, thân bất tịnh
và Tứ Vô Lượng Tâm: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, phải học tất cả những pháp
này cho thông suốt.
Nhờ thông suốt
những điều này mà áp dụng vào phương pháp xả tâm để hộ trì và bảo vệ chân lý
thì chúng ta sẽ thành tựu trong bảy ngày hoặc bảy tháng, cao lắm là bảy tháng
quý vị cũng chứng đạo, làm chủ được sự sống chết, muốn sống hồi nào thì sống,
muốn chết hồi nào thì chết, rất dễ dàng, không có khó khăn.
Đó là phương
pháp hộ trì bảo vệ chân lý để chứng đạt được chân lý. Đến đây Thầy xin trả lời
câu thứ nhất.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét